Đền Tam Giang, chùa Đại Bi toạ lạc tại hợp điểm Tam Giang của ba dòng Thao Giang, Đà Giang và Lô Giang và hướng nhìn thẳng ra sông Lô (mặt hướng thuỷ), trong khuôn viên rộng hơn 1000m2, theo lối kiến trúc “tiền thần, hậu phật”
Đền Tam Giang thờ chính nhân vật lịch sử huyền thoại thời kỳ Hùng Vương dựng nước: Vũ phụ Trung dực Uy hiển vương – húy là Thổ Lệnh. Nơi đây còn phối thờ nhân vật lịch sử triều Trần (thế kỷ XIII – XIV) là Chiêu văn vương Trần Nhật Duật và thờ Mẫu.

Thổ Lệnh đại vương mà dân gian còn quen gọi là Thánh Hạc đã có công chu du thiên hạ tìm phương thuốc quý chữa trị tật bệnh cho muôn dân, khi mất lại rất linh ứng giúp cho các tướng lĩnh đánh giặc ngoại xâm giữ nước. Thời Trần, Thổ Lệnh – Thạch Khanh linh thiêng âm phù giúp Trần Hưng Đạo đánh giặc, được gia phong làm Hộ quốc bảo dân Đại Vương và cho trang Bạch Hạc cùng nhiều địa phương khác đời đời thờ tự.
Chiêu văn vương Trần Nhật Duật là một danh tướng triều Trần (thế kỷ XIII – XIV), người có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2 và lần thứ 3. Tài năng, đức độ và sự nghiêm minh của ông đã góp phần không nhỏ vào sự tồn tại và hưng thịnh của nước Đại Việt thời Trần. Lịch sử ghi lại rằng, trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông ở thế kỷ XIII, triều đình nhà Trần đã nhiều lần chọn ngã ba Bạch Hạc làm nơi huấn luyện quân sĩ. Vào ngày Tết Thượng nguyên năm Ất Dậu (1285), tướng quân Trần Nhật Duật đã cắt tóc thề với thần linh, Tổ tiên nguyện đem hết lòng trung thành để báo ơn vua rồi chỉ huy binh sĩ ra trận, kiên cường mưu trí ngăn cản bước tiến công và tiêu hao sinh lực địch, góp phần vào chiến thắng oanh liệt của quân dân nhà Trần năm 1287. Để bày tỏ lòng biết ơn công lao của vị anh hùng dân tộc, người dân nơi đây đã tôn thờ ông trong đền Tam Giang.
Đền Tam Giang thờ Mẫu xuất phát từ tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ, một tín ngưỡng nguyên thủy rất cổ sơ được coi là đạo giáo bản địa của người Việt, thờ các nữ thần tự nhiên: Mẫu Thoải – cai quản sông nước, Mẫu Thượng Ngàn – cai quản núi rừng, Mẫu Thượng Thiên – cai quản bầu trời.
Nhìn thẳng ra sông Lô, đền Tam Giang và chùa Đại Bi nằm trong khuôn viên rộng hơn 1000m2, theo lối kiến trúc “tiền thần, hậu phật”. Đây là địa thế đẹp, mang đậm nét tư duy dân dã của người Việt với thế đất đắc địa, đó là: Đất phải cao ráo, sạch sẽ, phía trước mặt phải quang quẻ, đặc biệt phải có nguồn nước.
Mặt bằng kiến trúc đền Tam Giang gồm: Nghi môn, đền thờ, tượng Trần Nhật Duật và Nhà thờ Mẫu. Cổng đền kết cấu kiểu nghi môn – tứ trụ. Đền thờ kết cấu kiến trúc theo kiểu chữ đinh, gồm 2 tòa: Tiền tế và hậu cung, kiểu nhà 4 mái đao cong. Theo các tư liệu Hán Nôm, đền Tam Giang sơ khởi là một đạo quán có tên là quán Thông Thánh được dựng vào giữa thế kỷ thứ VII – năm Vĩnh Huy – năm 650 (quán là nơi thờ tự của đạo Giáo). Từ Thông Thánh quán ban đầu trở thành đền thờ, trải qua 12 thế kỷ thăng trầm của lịch sử, chiến tranh tàn phá làm hư hại nhiều; qua nhiều lần trùng tu đền có kiểu dáng kiến trúc như hiện nay. Trong đền Tam Giang còn lưu giữ nhiều cổ vật có giá trị lịch sử, văn hóa, thẩm mỹ như: Bia đá “Hậu thần bia ký” (Niên đại Gia Long năm thứ 17 – 1818); chuông đồng “Thông Thánh quán chung ký” (niên đại Minh Mệnh thứ 11 – 1830) với bài minh chuông chép lại tích của quán Thông Thánh. Đặc biệt, liên quan đến đền Tam Giang có hai tư liệu lịch sử quý giá là 02 Thác bản chuông: “Thông Thánh Quán” (Niên đại Đại Khánh thứ 8 – 1321, đời vua Trần Minh Tông) và “Phụng Thái Thanh từ” (niên đại Gia Long năm thứ 17 – 1818). Đây là nguồn sử liệu quý giá giúp các nhà khoa học nghiên cứu, tìm hiểu nhiều mặt kinh tế, văn hóa, xã hội thời Trần.

