1. ĐỀN TAM GIANG
Đền Tam Giang, chùa Đại Bi toạ lạc tại hợp điểm Tam Giang của ba dòng Thao Giang, Đà Giang và Lô Giang và hướng nhìn thẳng ra sông Lô (mặt hướng thuỷ), trong khuôn viên rộng hơn 1000m2, theo lối kiến trúc “tiền thần, hậu phật”
Đền Tam Giang thờ chính nhân vật lịch sử huyền thoại thời kỳ Hùng Vương dựng nước: Vũ phụ Trung dực Uy hiển vương – húy là Thổ Lệnh. Nơi đây còn phối thờ nhân vật lịch sử triều Trần (thế kỷ XIII – XIV) là Chiêu văn vương Trần Nhật Duật và thờ Mẫu.

Thổ Lệnh đại vương mà dân gian còn quen gọi là Thánh Hạc đã có công chu du thiên hạ tìm phương thuốc quý chữa trị tật bệnh cho muôn dân, khi mất lại rất linh ứng giúp cho các tướng lĩnh đánh giặc ngoại xâm giữ nước. Thời Trần, Thổ Lệnh – Thạch Khanh linh thiêng âm phù giúp Trần Hưng Đạo đánh giặc, được gia phong làm Hộ quốc bảo dân Đại Vương và cho trang Bạch Hạc cùng nhiều địa phương khác đời đời thờ tự.
Chiêu văn vương Trần Nhật Duật là một danh tướng triều Trần (thế kỷ XIII – XIV), người có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2 và lần thứ 3. Tài năng, đức độ và sự nghiêm minh của ông đã góp phần không nhỏ vào sự tồn tại và hưng thịnh của nước Đại Việt thời Trần. Lịch sử ghi lại rằng, trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông ở thế kỷ XIII, triều đình nhà Trần đã nhiều lần chọn ngã ba Bạch Hạc làm nơi huấn luyện quân sĩ. Vào ngày Tết Thượng nguyên năm Ất Dậu (1285), tướng quân Trần Nhật Duật đã cắt tóc thề với thần linh, Tổ tiên nguyện đem hết lòng trung thành để báo ơn vua rồi chỉ huy binh sĩ ra trận, kiên cường mưu trí ngăn cản bước tiến công và tiêu hao sinh lực địch, góp phần vào chiến thắng oanh liệt của quân dân nhà Trần năm 1287. Để bày tỏ lòng biết ơn công lao của vị anh hùng dân tộc, người dân nơi đây đã tôn thờ ông trong đền Tam Giang.
Đền Tam Giang thờ Mẫu xuất phát từ tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ, một tín ngưỡng nguyên thủy rất cổ sơ được coi là đạo giáo bản địa của người Việt, thờ các nữ thần tự nhiên: Mẫu Thoải – cai quản sông nước, Mẫu Thượng Ngàn – cai quản núi rừng, Mẫu Thượng Thiên – cai quản bầu trời.
Nhìn thẳng ra sông Lô, đền Tam Giang và chùa Đại Bi nằm trong khuôn viên rộng hơn 1000m2, theo lối kiến trúc “tiền thần, hậu phật”. Đây là địa thế đẹp, mang đậm nét tư duy dân dã của người Việt với thế đất đắc địa, đó là: Đất phải cao ráo, sạch sẽ, phía trước mặt phải quang quẻ, đặc biệt phải có nguồn nước.
Mặt bằng kiến trúc đền Tam Giang gồm: Nghi môn, đền thờ, tượng Trần Nhật Duật và Nhà thờ Mẫu. Cổng đền kết cấu kiểu nghi môn – tứ trụ. Đền thờ kết cấu kiến trúc theo kiểu chữ đinh, gồm 2 tòa: Tiền tế và hậu cung, kiểu nhà 4 mái đao cong. Theo các tư liệu Hán Nôm, đền Tam Giang sơ khởi là một đạo quán có tên là quán Thông Thánh được dựng vào giữa thế kỷ thứ VII – năm Vĩnh Huy – năm 650 (quán là nơi thờ tự của đạo Giáo). Từ Thông Thánh quán ban đầu trở thành đền thờ, trải qua 12 thế kỷ thăng trầm của lịch sử, chiến tranh tàn phá làm hư hại nhiều; qua nhiều lần trùng tu đền có kiểu dáng kiến trúc như hiện nay. Trong đền Tam Giang còn lưu giữ nhiều cổ vật có giá trị lịch sử, văn hóa, thẩm mỹ như: Bia đá “Hậu thần bia ký” (Niên đại Gia Long năm thứ 17 – 1818); chuông đồng “Thông Thánh quán chung ký” (niên đại Minh Mệnh thứ 11 – 1830) với bài minh chuông chép lại tích của quán Thông Thánh. Đặc biệt, liên quan đến đền Tam Giang có hai tư liệu lịch sử quý giá là 02 Thác bản chuông: “Thông Thánh Quán” (Niên đại Đại Khánh thứ 8 – 1321, đời vua Trần Minh Tông) và “Phụng Thái Thanh từ” (niên đại Gia Long năm thứ 17 – 1818). Đây là nguồn sử liệu quý giá giúp các nhà khoa học nghiên cứu, tìm hiểu nhiều mặt kinh tế, văn hóa, xã hội thời Trần.

2. CHÙA ĐẠI BI
Chùa Đại Bi là công trình kiến trúc tôn giáo thờ Phật theo dòng Phật Đại Thừa ở miền Bắc, hiện có tòa Tam bảo và nhà bia. Ngôi chùa không chỉ là nơi các nhà sư tu hành, các tín đồ phật giáo tới làm lễ, mà còn là một trong những nơi sinh hoạt văn hóa qua nhiều thế hệ. Theo sử sách thì chùa Đại Bi được xây từ thế kỷ thứ XIX, đã qua nhiều lần trùng tu. Cuộc trùng tu lớn nhất vào năm 2000 đã tạo nên diện mạo ngôi chùa như ngày nay với nguyên mẫu từ những ngôi chùa cổ của Việt Nam như bờ cong, tám mái với những đầu đao chạm rồng cao vút. Toàn bộ những bức cửa võng trong chùa đều được chạm trổ tinh xảo và thếp vàng. Chính điện trong chùa đặt năm pho tượng được đúc bằng đồng ngự trên tòa sen. Hình dáng các bức tượng theo phái Mật Tông của Tây Tạng. Ngoài ra, trong chùa còn có khá nhiều bức tượng Phật được đúc bằng đồng. Hầu hết các câu đối cũng được đúc bằng đồng. Cột, xà ngang đều được chạm khắc các họa tiết long, ly, quy, phượng, hoa cúc, hoa sen với những đường nét sống động. Chính gian giữa trong chùa treo một tấm hoành phi trên có khắc bài chú Đại Bi bằng tiếng Phạn. Toàn bộ những cánh cửa gỗ ở mặt trước của ngôi chùa đều được làm bằng gỗ, trên mặt cửa có chạm nổi hình các vị Bồ Tát, các vị La Hán. Các bức phù điêu gỗ trên mái chùa cũng được chạm khắc các tích của nhà Phật. Điều đặc biệt nữa là trên toàn bộ mặt tường của chùa hướng ra sông đều được đắp nổi hình những ngôi chùa tiêu biểu ở Việt Nam.

Với những giá trị lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật độc đáo, cụm di tích đền Tam Giang – chùa Đại Bi được Bộ Văn hóa,Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích kiến trúc – nghệ thuật quốc gia vào tháng 6 năm 2010. Nơi đây không chỉ là trung tâm tín ngưỡng tôn giáo của một vùng rộng lớn mà còn là nơi diễn ra một trong những Lễ hội tiêu biểu vào bậc nhất của vùng Đất Tổ. Đó là hội thi bơi trải vùng Bạch Hạc nổi tiếng, lễ hội cướp còn, nấu cơm thi…
3. ĐỀN QUÁCH A NƯƠNG
Quách A Nương (Quách A), người con vùng quê Bạch Hạc, là vị nữ tướng dưới lá cờ khởi nghĩa đánh đuổi quân Hán, dựng nước, xưng vương của Hai Bà Trưng những năm 40 – 43 sau công nguyên.
Được sinh ra tại một làng chài nhỏ vùng Ngã Ba Hạc, Quách A sớm mồ côi cha mẹ đã tìm đến chốn thanh tịnh nơi cửa chùa để tu hành, lấy tên hiệu là Khâu Ni. Giữa thời điểm nhà Hán xâm lược nước ta, đi tới đâu cũng thấy cảnh giặc Hán hoành hành, ức hiếp dân lành nên trong lòng Quách A nung nấu ý chí căm thù, muốn đuổi giặc cứu nước, cứu dân… Nàng tập hợp phật tử dạy võ nghệ, vận động nhân dân đứng lên đánh đuổi giặc Hán. Nghe tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Mê Linh, cho sứ giả tới truyền hịch, Khâu Ni dựng đàn tế cáo trời đất, mở hội ba ngày ba đêm với nhiều cuộc thi như: Ném lao, đấu vật, bắn cung, cưỡi ngựa… nhằm chiêu tập binh sĩ rồi cầm quân tiến về Hát Giang tụ nghĩa. Hai Bà Trưng ra tận bến sông ân cần tiếp đón, phong cho Khâu Ni là Tiên phong tả tướng quân. Ngày Hai Bà Trưng phá quân Tô Định ở thành Luy Lâu, Quách A dẫn đạo quân của mình theo dòng sông Thao, cùng Thiều Hoa lĩnh ấn Hữu tướng tiên phong tiến vào sông Thiên Đức (sông Đuống) cùng vào sông Dâu đánh thành Luy Lâu. Sau khi đánh tan giặc Hán, Trưng Trắc lên ngôi vua phong cho Quách A là “Khâu Ni công chúa”, lệnh cho nàng về Nhật Chiêu (nay là thôn Cựu Ấp, xã Liên Châu, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc) lập đồn lũy, ngày ngày rèn quân luyện tướng, khuyến khích nhân dân khai khẩn đất hoang làm đồng ruộng. Truyền thuyết ghi lại ngày 6 tháng Giêng âm lịch, công chúa Khâu Ni nhân được mùa bèn mở hội khao thưởng quân dân, bỗng có đám mây vàng bay xuống, công chúa bước lên rồi biến mất. Từ đó dân vùng Bạch Hạc (Việt Trì) và Nhật Chiêu (Yên Lạc) mỗi năm đều lấy ngày 6 tháng Giêng làm ngày mở lễ hội, đền Tam Giang ở Bạch Hạc là nơi mở hội chính, vừa là hình thức sinh hoạt cộng đồng chung, vừa để cầu một năm mới con cháu đuề huề, cấy hái được mùa, đánh bắt bội thu, buôn bán phát đạt. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, một phần di tích bị hủy hoại. Đến năm 2007, ngôi đền được tu bổ trên nền móng cũ theo đúng kiến trúc cổ truyền và trở thành điểm tựa tâm linh cho đông đảo nhân dân trong vùng.
Nằm trong quần thể di tích lịch sử văn hóa phường Bạch Hạc, vùng đất còn lưu giữ được nhiều di sản văn hóa đặc sắc liên quan đến kinh đô Văn Lang và thời đại Hùng Vương dựng nước, ngôi đền tọa lạc trên khu đất rộng, nhìn ra sông Lô được xây dựng với kiến trúc độc đáo theo kiểu chữ “đinh”, gồm ba gian đại bái và một gian hậu cung, tổng diện tích 190m2, thiết kế theo kiểu nhà 4 mái đao cong. Trong đền còn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật có giá trị như: Ống hoa, đài nước, mâm bồng, chóe đựng nước, nậm rượu, lư hương, tượng thờ.


Khuôn viên đền Quách A Nương
Đền Quách A Nương thuộc hệ thống các di tích thờ các tướng lĩnh thời Hai Bà Trưng.
Nghiên cứu về di tích giúp chúng ta hoàn thiện thêm bức tranh về cuộc khởi nghĩa đánh đuổi giặc Hán giành độc lập dân tộc. Cùng với Nàng Nội, Thiều Hoa, Xuân Nương… nữ tướng Quách A Nương đã có công lãnh đạo và gắn kết người dân Đất Tổ với nhân dân cả nước, làm nên một gia đình lớn không chỉ mang nền tảng bền chặt bởi quan hệ huyết thống, mà còn là tập thể chung chí hưởng, lý tưởng đánh đuổi quân Hán xâm lược.
Hiện nay, đền thờ Quách A Nương là nơi gửi gắm tâm tư, nguyện vọng, nơi sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân địa phương. Năm 2009, đền được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Việc tôn tạo, bảo vệ di tích không chỉ giúp cho việc bảo tồn các di sản văn hóa phi vật thể gắn với di tích mà còn là cơ sở để phát huy các giá trị của di tích, góp phần vào phát triển kinh tế xã hội địa phương.
4. ĐỀN THƯỢNG THỌ
Đền Thượng Thọ được xây dựng từ lâu, do những người dân làng Vạn (người dân chuyên làm nghề đánh cá) dựng lên từ một bè gỗ dưới sông để thờ các vị thần hoàng làng của làng mình, giống như các di tích trên cạn. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, do thiên tai tàn phá và trong trận lũ năm 1993 đã phá vỡ bè gỗ và kiến trúc ngồi đền của người dân làng Vạn. Sau trận lũ này, một số người dân làng Vạn đã lên định cư trên cạn, thành lập một ngôi làng mới lấy tên là Thượng Thọ, thuộc huyện Bạch Hạc và dựng tạm ngôi đền 3 gian nhỏ lợp lá. Đến năm 1990, nhân dân làng Thượng Thọ đã xây dựng lại ngôi đền với kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm 3 gian đại bái và một gian hậu cung. Năm 1947, vùng ngã ba Hạc bị thực dân Pháp tàn phá ác liệt, nhà cửa và các di tích lịch sử văn hóa bị bắn phá, đốt cháy hoàn toàn, trong đó có đền Thượng Thọ. Sau hòa bình lập lại, năm 1954, nhân dân làng Thượng Thọ trở về và dựng lại ngôi đền 3 gian nhỏ lợp lá. Đến năm 1990, nhân dân làng Thượng Thọ (Phố Đoàn Kết hiện nay) đã xây dựng lại ngôi đền Thượng Thọ trên nền móng cũ. Từ đó đến nay, ngôi đền được tu sửa và tôn tạo rất khang trang.

Đền Thượng Thọ được xây dựng trên khu đất có diện tích 536, 2m2, gồm các gian: Tiền tế, phương đề, đại bái và hậu cung. Từ cổng vào là một sân lát gạch rộng khoảng 40m2. Bố cục kiến trúc ngôi đền được làm theo kiểu giật cấp cao dần về phía hậu cung. Trước toàn tiền tế có có đắp hai ông hộ pháp đứng canh cửa, càng làm tăng thêm vẻ uy nghiêm cho ngôi đền thiêng. Tòa tiền tế được xây dựng năm 2003 với 3 gian, 4 mái đao cong, trên nóc có đắp hình lưỡng long chầu nguyệt, mái lợp kiểu ngói mũi, nền lát gạch đỏ vuông. Toàn bộ các cột được xây bằng xi măng đắp tròn sơn giả gỗ. Các xà, đầu bẩy, câu đầu đều được đục chạm nổi hoa văn là những vân mây hình rồng, hoa lá…
Phương đền được xây dựng năm 2001, làm theo kiểu nhà tám mái đao cong, trên đắp hình lưỡng long chầu nguyệt. Hai bên phương đền là hai tòa tả hữu mạc, được xây dựng năm 1990, được làm nối liền với tiền tế và đại bái, mỗi tòa gồm 3 gian. Bên tả mạc đặt ban thờ Cô và Cậu, bên hữu mạc đặt ban thờ mẫu và ông hoàng Ba, Hoàng Bảy, Hoàng Mười…
Cuối cùng là tòa đại bái và hậu cung đền được xây dựng năm 1990. Đại bái gồm 3 gian, gian giữa rộng 3m, hai gian cạnh mỗi gian rộng 1,5m. Hậu cung nối liền với đại bái gồm 1 gian nhỏ dài 2m, và được xây bệ làm thành thượng cung cách nền 1,2m. Trên thượng cung được bài trí thờ như sau: Trên cùng thờ tượng phật A Di Đà, hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. lớp thứ hai là 3 vị vua cha Bát Hải. lớp thứ 3 gồm 3 pho tượng mẫu (mẫu Thoải, mẫu Ngàn, mẫu Địa). Bên dưới cùng gồm 5 vị: Quan Lớn Đệ Nhất, Quan Đệ Nhị, Quan Đệ Tam, Quan Đệ Tứ, Quan Đệ Ngũ. Bên trái hậu cung đặt tượng Đức Ông và đặt trong khám thờ tượng Đức Thánh Trần. Bên phải hậu cung đặt tượng thờ chúa Thác Bờ, chúa Đệ Nhị và chúa Chầu Bát. Dưới gầm sàn thượng cung đặt tượng thờ ngũ hổ. Toàn bộ các bức tượng đều được sơn son thếp vàng.
Do trước kia bị nước lụt tàn phá nên toàn bộ di vật cổ tại di tích đã không còn lưu giữ được. Toàn bộ hiện vật có trong di tích hiện nay đều mới được nhân dân và khách thập phương công đức sau này như: Lư hương đồng, hạc đồng, đỉnh đồng, chuông đồng… đều được tạo tác từ những chất liệu tốt, mang giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật. Đền Thượng Thọ hiện còn lưu giữ được bản sao cuốn ngọc phả, 3 đạo sắc phong dưới triều vua Đồng Khánh năm thứ hai (năm 1887), vua Duy Tân năm thứ ba (1909), Khải Định năm thứ chín (1924).
Các tiết sinh thần của các vị thần, chữ tên húy và sắc phục được quy định như sau: Nhất sinh thần Thánh Mẫu vào ngày 10/10 (Âm lịch), trước một ngày cúng cỗ đều có hoa quả và oản, kiêng dùng màu đỏ, được ca hát chầu văn trong 3 ngày. Nhất sinh thần hai vị đại vương ngày 22/2 (Âm lịch) được coi là ngày chính tiệc, làng có tiệc cầu đinh, cầu tài lộc. Mở hội ca hát 2 ngày (Từ ngày 22 đến hết ngày 23 tháng 2), tổ chức rước kiệu từ đền ra bến sông rồi đi thuyền ra giữa sông Hồng lấy nước đầy vào chóe thờ rồi lại rước về đền để tế lễ. Theo tục lệ của làng, năm nào phong đăng hòa cốc thì mở tiệc lớn, làm hội tưng bừng như: Tế lễ, rước kiệu, múa rồng, múa lân, đón phường hát suốt đêm ngày. Còn năm nào mất mùa thì chỉ có hoạt động tế lễ, cầu cúng thần phù hộ cho dân làng Vạn để việc làm ăn của họ gặp nhiều may mắn hơn. Với những giá trị văn hóa, lịch sử to lớn, đền Thượng Thọ được UBND tỉnh Phú Thọ công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh vào năm 2005.
Đền Thượng Thọ được xây dựng ở vị trí gần ngã ba sông, trước cửa đền là bến đỗ thuyền bè của người dân, ngày đêm ra vào bến bờ khiến cho cảnh quan khu di tích ngày thêm nhộn nhịp, đông vui. Mỗi chuyến đi đánh cá hoặc đi thuyền buôn bán ngược xuôi trở về thắng lợi, người dân làng Vạn đều vào đền để tạ ơn thần linh đã phù hộ cho họ. Nơi đây hứa hẹn sẽ trở thành một điểm tham quan du lịch mang ý nghĩa tâm linh của du khách trong và ngoài tỉnh vào các dịp lễ hội. Đặc biệt là trong dịp lễ hội Đền Hùng mùng 10/3 âm lịch hàng năm, Bạch Hạc là điểm đặt chân đầu tiên của du khách khi về mảnh đất cội nguồn, nơi có ngã ba Hạc nơi “cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ chia tay nhau”, nơi có đền Tam Giang, chùa Đại Bi, có lễ hội bơi chải, có hội thi giã bánh giầy… Đó là bức tranh khơi dậy truyền thống văn hóa, những dấu ấn lịch sử của di sản văn hóa vùng ngã ba sông, và đây cũng là nguồn tài nguyên nhân văn vô cùng phong phú để Phú Thọ phát triển mạnh mẽ loại hình du lịch tâm linh trong thời gian tới.
5. ĐỀN LANG ĐÀI
Đền Lang Đài tọa lạc tại địa phận thôn Lang Đài, phường Bạch Hạc, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Phường Bạch Hạc nằm ở phía Đông Nam thành phố Việt Trì, có đường Quốc lộ 2B chạy qua, giáp với huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Đây là nơi in đậm màu sắc truyền thuyết Hùng Vương dựng nước và giữ nước, nơi hợp lưu của ba dòng sông Sông Đà, Sông Lô, Sông Hồng. Bạch Hạc còn là vùng đất tụ linh, tụ thủy, tụ khí, cho đến nay vẫn còn lưu giữ được nhiều di tích lịch sử văn hóa có giá trị. Đền Lang Đài là một trong số những di tích nổi bật tại đây, góp phần khiến mảnh đất Bạch Hạc trở thành điểm đến tâm linh hấp dẫn của thành phố Việt Trì nói riêng, của tỉnh Phú Thọ nói chung.

Đền Lang Đài thờ Đông Hải Long Vương, người con thứ 25 của Lạc Long Quân và Âu Cơ – một nhân vật trong truyền thuyết dân gian từ buổi đầu dựng nước. Ngài có công giúp dân trị thủy, bảo vệ cuộc sống yên vui của cộng đồng làng xóm. Với cư dân trồng lúa nước thì công cuộc trị thủy là đặc biệt quan trọng. Nó giúp duy trì sự sống và là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của nền văn minh sông Hồng. Chính vì vậy hình tượng Đông Hải Long Vương đã được nhân dân ngưỡng mộ và tôn thờ, đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của nhân dân.
Tích xưa kể rằng, thủa ấy vùng đất Bạch Hạc – Bồ Sao xảy ra đại nạn hồng thủy, tàn hại nhà cửa, ruộng nương, dân chúng phải kéo nhau đi phiêu dạt khắp nơi. Thấy vậy vua Hùng Vương thứ XVIII sai Đông Hải quan lang và nhị vị tướng quân An Giang là anh em sinh ra cùng bọc trứng đến Giang đầu sứ. Đông Hải hành binh, đóng trụ sở hành doanh tại Bồ Sao, An Giang đóng tại đất Diễn Xuân.
Ngày 6 tháng 6, Đông Hải truyền quân sĩ xây dựng doanh trại tại đồi Quán Sứ và Long Sứ, đồng thời huy động dân chúng và binh lính xây thành, đắp lũy để ngăn nước lũ. Một ngày đẹp trời, bỗng nhiên mây mù vẩn đục, nước lũ tràn dâng, có ba bè gỗ trôi từ hướng núi Tam Đảo về. Trên ba bè gỗ có ngọn cờ đen thẳng xuống. Nhị vị tướng quân công lệnh truyền cho binh sĩ giữ lại không cho các bè đi. Nhưng trên bè trống không, chẳng có ai ngoài đàn rắn, một lát sau thấy xuất hiện một con thuyền nổi lên từ dưới nước, cũng không thấy có gì trong thuyền, nhưng có tiếng hét từ chiếc thuyền ấy: “Tôi vâng lệnh đức Long Quân Thủy Quốc, chúng tôi lên núi Tam Đảo lấy cây cối về xây dựng lại long cung, chúng ta cùng là tình huyết mạch đồng mẫu, cớ sao lại đem quân vây hãm chúng tôi”. Nhị vị tướng quân mắng lại: “Tuy là huyết mạch tương đồng thật, nhưng đây là phép nước, vua sai ta giữ thanh bình cho sông núi, sao ngươi lại đem quân lên phá cây cối, đem theo nạn hồng thủy tai vạ cho các cung điện, hủy hoại cuộc sống của dân lành, lệnh truyền cho tất cả các người phải giải tỏa hết nạn đại hồng thủy đi, nếu không các người sẽ phải hối hận”. Tướng công nói song, tự nhiên nước lũ rút hết, vạn vật lại như xưa, nhà cửa ruộng nương như bừng tỉnh, người vật các nơi lại lục đục kéo về. Đông Hải được vua cho ở lại vùng Bạch Hạc để trị dân, giữ yên vui làng xóm.
Trong thời gian Đông Hải dốc hết tâm sức giúp dân, bảo vệ và xây dựng cuộc sống, thì vợ ông có thai, sinh được một gái đoan trang, phúc hậu. Hôm đó là ngày 15 tháng 5, trên trời mây ngũ sắc cuồn cuộn tuôn về. Đông Hải và vợ đặt tên con là Thục Nương, sau gọi là Thục Trinh công chúa. Đông Hải trị vì được ba năm, nhân dân trong vùng yên vui no ấm thì vua lại điều ngài về vùng Khoái Châu, Hải Dương. Vì lúc bấy giờ ở đó đang bị nạn đại hồng thủy đe dọa. Đông Hải cùng An Giang lại một lần nữa ra tay cứu dân làng thoát khỏi tai họa. Sau khi yên vui, Đông Hải lại trở về doanh trại cũ ở vùng Bồ Sao. Vài năm sau, một hôm ngài cùng vợ con bơi thuyền ra ngã ba sông ngắm cảnh. Trời quang mây tạnh, bỗng nhiên thuyền biến mất giữa dòng, hôm đó là ngày thần hóa.
Từ đó trở đi, nhân dân vùng Bồ Sao – Bạch Hạc lập đền thờ cúng để tưởng nhớ công lao lớn của ông. Trước đây, cả vùng này có một đền thờ chung là đền Đuông ở Bồ Sao. Ba làng: Bồ Sao, Diễm Xuân và Lang Đài cùng thờ thần ở đây. Sau này, do sự thay đổi về địa giới hành chính, Lang Đài tách ra, dựng đền thờ riêng để thờ vị thần này.
Câu chuyện về Đông Hải Long Vương tuy chỉ là truyền thuyết, huyền thoại, nhưng đã ăn sâu vào tiềm thức nhân dân, được nhân dân coi như một vị anh hùng dân tộc của thời đại Hùng Vương. Nó cũng phản ánh cuộc đấu tranh hết sức khắc nghiệt trong buổi đầu dựng nước của cộng đồng người Việt giữa con người và thiên nhiên để tồn tại. Qua đó khẳng định được sức mạnh bất diệt của con người trong công cuộc đấu tranh đó.
Đền nằm trên một gò cao ở thôn Lang Đài, ở vào thế “quần long thủy tụ”. Đền quay về hướng Tây Nam, thẳng trước mặt là ngã ba Hạc, nơi dồn tụ của ba con sông lớn. Theo các cụ có tuổi trong làng kể lại thì đền được xây dựng vào triều Nguyễn, cách đây khoảng hơn 200 năm. Trước kia đền có 3 gian tiền tế, một ngôi phương đình tám mái lộng lẫy, sáu gian tả mạc dọc theo phương đình, và tòa đại bái 5 gian đồ sộ. Nhưng sau năm 1947, chính phủ ta chủ trương “tiêu thổ kháng chiến”, vườn không nhà trống nên ngôi đền bị đốt đi, chỉ còn lại phần hậu cung. Sau khi hòa bình lập lại năm 1954, nhân dân địa phương trùng tu, sửa chữa lại thành ngôi đền thờ như hiện nay.
Đền có kiến trúc kiểu chữ nhất. Sảnh của đền có đặt ban thờ công đồng, nơi đây được bố trí như một nhà tiền tế nho nhỏ với cấu trúc hai mái được trang trí viền lá mái cánh sen. Bốn cây cột xi măng vững chắc tạc thành hai vòm cửa cuốn đối xứng nhau. Mặt tường trước sảnh giữa hai vòm cửa được vẽ trang trí lưỡng long chầu nguyệt. Hai đầu sảnh xây chắn hai bức tường. Mỗi bức đều được vẽ trang trí hình long mã và vân mây. Chính giữa sảnh có treo bức cuốn thư đề 4 chữ “ Đức quán bách vương”. Tiếp sau phần sảnh là đại bái gồm 3 gian dài 6,5m, rộng 6,3m, ứng với mỗi gian là một cửa vòm cuốn cao 2,1m, rộng 1,1m làm kiểu hai cánh. Trên khuôn cửa gian giữa treo bức hoành phi “Phúc như xuyên chí”. Hai bên cửa ra vào đại bái có đắp nổi hai tượng võ sĩ tay cầm giáo hướng ra phía trước, chân đi hài đen, đầu đội mũ, nét mặt trang nghiêm.
Phía trên khuôn cửa gian bên có vẽ con phượng đang sải cánh bay. Phần mái được trang trí hình cánh sen cách điệu. Kết cấu kiến trúc phần mái của ngôi đền mang cả dáng dấp cổ xưa và hiện đại: Quá giang gối tường, cột trốn và chồng bồn gian giữa xây dựng một khám thờ lát ván gỗ cao. Cửa khám làm theo kiểu bức bàn có vẽ họa tiết phượng càm thư, vân mây cách điệu, rùa cưỡi mây, trên lưng chở cuốn thư.
Trên cửa khám có treo một bức nghi môn, vải trang trí sặc sỡ, ở gian ngoài bên phải có một án nhang bằng xi măng thờ thổ thần. Đền được cấu tạo nhỏ gọn nhưng vẫn không mất đi vẻ trang nghiêm. Phần nội thất được bố trí hài hòa, cân đối, phù hợp với cấu trúc của ngôi đền.
Nghệ thuật điêu khắc và trạm trổ ở đây chủ yếu được thể hiện ở các di vật còn giữ được cho đến nay. Đền Lang Đài còn lưu giữ được một cỗ kiệu bát cống có niên đại từ năm 1699, dài 3,9m rộng 2,45m, sơn son thếp vàng lộng lẫy và có 8 đòn khiêng. Có thể nói đây là một cỗ kiệu đẹp, còn giữ được nguyên vẹn cho đến nay. Cỗ kiệu được trang trí hình tượng tứ linh, một hình tượng truyền thống tiêu biểu của thể chế phong kiến, nhưng nó cũng thể hiện được niềm mơ ước của quần chúng. Đó là những con rồng đem nước về tưới cho đồng ruộng, những cánh phượng báo tin vui – một cuộc sống hòa bình, no ấm.
Ngoài ra đền còn lưu giữ được bức đại tự có niên đại từ năm 1912, khắc 4 chữ: “Phúc như xuyên chí”. Bên trái có dòng chữ nhỏ khắc nổi “Đệ tam giáp tiến sĩ kính tiến”. Bên phải là dòng chữ ghi “ Long phi canh tuất quý động”. Viền trên bức đại tự khắc chìm mặt hổ phù và rồng cách điệu. Tại đây cũng có treo một bức cuốn thư khắc 4 chữ: “Đức quán bách y vương”, phía trên đề dòng chữ nhỏ “”Bảo đại giáp thâm niên” (tức năm 1944). Viền trên và dưới lòng cuốn thư trang trí rồng nhỏ cách điệu chầu bông cúc. Phần hai bên ngoài cuốn thư chạm nổi hình mai hóa rồng. Bông mai hóa đầu rồng ngẩng lên, cành mai là thân rồng uốn khúc, đuôi rồng là. Dưới nền khắc nổi hình mai rùa một bông mai lớn. Dưới nền khắc nổi hình mai rùa, giữa các ô mai rùa, giữa các ô của mai rùa khắc hình hoa thị. Riềm ngoài cùng của cuốn thư chạm một nhành hoa cúc đang kỳ mãn khai. Cành hoa vươn lên mềm mại với những bông cúc nở to, cành lá chen dầy tươi tốt. Trong cuốn thư cắm hai thanh kiếm hở chuôi. Phía dưới cùng của cuốn thư chạm mặt hổ phù cặp chữ thọ, hai tay năm móng dang rộng bám chặt vào hai bên cuốn thư, ở hai bên mặt hổ phù chạm nổi con rùa đang phun lên cột nước cao.
Đền còn lưu giữ một bảng chúc văn có chạm nổi họa tiết lưỡng long chầu nguyệt, thân rồng uốn khúc xếp vảy, râu cá trê, bờm tóc dữ tợn, xung quanh chạm những vân mây cách điệu; và một số đồ thờ tự như: chiếc mâm bồng, đài nước, ống hoa, bát hương sứ, nậm rượu, lục bình sứ.
Để tỏ lòng thành kính các vị thần được thờ, cho đến nay người dân vùng này vẫn kiêng những tên như: Hải, Long, Thanh… người ta đọc chệch là “Đương Hải Lung Vương”. Bà Mẫu tên là Thanh nên nhân dân gọi chệch đi là “Thinh”. Hàng năm tại đây tổ chức nhiều lễ hội truyền thống: Ngày 7 tháng giêng là tiệc cầu đinh (Cầu con trai), dân làng tổ chức đấu vật và cúng tiệc mặn. Trong tiệc này chỉ có con trai được dự và đem phần về nhà. Ngày 13 tháng giêng là ngày tế thọ đinh, tức là ngày cầu thọ, chỉ có các cụ già từ 50 tuổi trở lên được dự, mở tiệc và cầu tế. Ngày 12 tháng 3 âm lịch, ở đây mở hội tiệc tạ các vua Hùng là anh của Đông Hải Long Vương, dân làng tổ chức tiệc mặn cúng tế. Ngày 15 tháng 5 là ngày sinh công chúa, là lễ được tổ chức lớn nhất trong năm. Ở đây mở hội rước nước, dân chúng bơi thuyền ra giữa sông lấy nước vào lộc bình, rồi để lên kiệu rước về đền tế lễ, tổ chức nhiều trò vui. Thực chất việc mừng ngày sinh công chúa đã gắn liền với tập quán cầu nước tưới cho mùa màng tốt tươi. Đây là một yếu tố quan trọng trong đời sống của cư dân nông nghiệp. Ngày 25 tháng 5 âm lịch (ngày đồng hóa), là ngày giỗ của Đông Hải Long Vương và phu nhân, công chúa. Ngày 12 tháng 9 âm lịch là tiệc Tam vị đại vương đồng hóa chính tiệc, tế tiệc cảm ơn thần thánh phù hộ cho mùa màng bội thu. Ngày 25 tháng 12 là ngày tiệc xếp ấn của năm. Nói chung, các lễ hội ở đây được tổ chức nhằm tưởng nhớ công lao trị thủy của hai vị anh hùng dân tộc, đồng thời gắn chặt với tín ngưỡng nông nghiệp của cư dân lúa nước như: lễ đầu năm, cầu nước, cầu mùa, mừng cơm mới, nhằm cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, nhân dân no ấm. Với những giá trị văn hóa và lịch sử sâu sắc, Đền Lang Đài đã được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh vào năm 1993.
Đền Lang Đài – một trong những ngôi đền thờ Đông Hải Long Vương ở vùng ngã ba sông có sức ảnh hưởng đáng kể đến đời sống tinh thần của nhân dân địa phương. Chính trong lớp huyền thoại về công lao của Đông Hải Long Vương, chúng ta còn nhận ra cuộc đấu tranh hết sức gian nan khắc nghiệt giữa con người và thiên nhiên trong buổi đầu dựng nước. Qua đó, tôn vinh sức mạnh và ý chí của con người trong công cuộc đấu tranh chống thiên tai, khẳng định ý nghĩa nghĩa nhân văn to lớn của Đền Lang Đài trong đời sống tâm linh của nhân dân.
6. ĐÌNH, CHÙA MỘ CHU THƯỢNG
Cụm di tích Đình chùa Mộ Chu Thượng có kiểu dáng kết cấu kiến trúc chữ Đinh. Đình gồm có một tòa ba gian, hai dĩ đại bái và hai gian hậu cung, nhìn quay theo hướng tây nam. Đình Mộ Chu Thượng là di tích tín ngưỡng thờ thần thành hoàng có tên là Trung Quân, ngài đã có công âm phù cho vua Đinh Tiên Hoàng trong công cuộc chống Tống xâm lược cuối thế kỷ X, khi Vua và quân sĩ đi qua và nghỉ đêm tại đây. Trong đình còn phối thờ hoàng đế Lê Đại Hành và 2 bà hậu. Chùa Mộ Chu Thượng là di tích tôn giáo, thờ Phật theo dòng Đại Thừa du nhập vào nước ta, có tên là chùa Phúc Lâm: chùa Phúc Lâm có kết cấu kiến trúc chữ Đinh gồm có 5 gian 2 dĩ tiền đường, 2 gian thượng điện. Trong chùa hiện còn 15 pho tượng được tạo tác khá đẹp theo phong cách của tượng tròn thời Nguyễn. Ngoài 15 pho tượng của chùa Phuc Lâm, cụm di tích Đình, chùa Mộ Chu Thượng còn lưu giữ được khá nhiều những di vật, cổ vật và hiện vật như: Ngọc phả, sắc phong, lư hương gốm thổ hà, đài trầu, đài rượu, tượng thành hoàng, long ngai, bài vị, hoành phi, câu đối…có giá trị khoa học, lịch sử, văn hoá. Lễ hội truyền thống Đình, chùa Mộ Chu Thượng diễn ra hàng năm. Đình, chùa Mộ Chu Thượng đã được UBND tỉnh công nhận cụm di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh.



